Mọi thông tin dưới đây đã được Dược sĩ biên soạn lại. Tuy nhiên, nội dung hoàn toàn giữ nguyên dựa trên tờ Hướng dẫn sử dụng, chỉ thay đổi về mặt hình thức. |
1. Thành phần
Mỗi ml dung dịch tiêm truyền Paclitaxel 30mg/5ml Ebewe chứa 6 mg Paclitaxel.
Tá dược: Macrogolglycerol ricinoleat và ethanol khan.
2. Công dụng (Chỉ định)
Ung thư biểu mô buồng trứng
Trong hóa trị bước một của ung thư buồng trứng, Paclitaxel phối hợp với Cisplatin được chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng tiến triển hoặc khối u còn lại > 1cm sau khi đã phẫu thuật ban đầu.
Trong điều trị bước hai ung thư buồng trứng, Paclitaxel được chỉ định để điều trị ung thư biểu mô buồng trứng di căn sau thất bại của phác đồ chuẩn có platinum.
Ung thư biểu mô vú
Trong điều trị hỗ trợ ung thư vú, Paclitaxel được chỉ định điều trị ung thư biểu mô di căn ở vú có hạch dương tính sau phác đồ dùng Anthracyclin và Cyclophosphamid (AC). Liệu pháp điều trị hỗ trợ bằng Paclitaxel nên được coi là một lựa chọn thay thế phác đồ AC mở rộng.
Paclitaxel được chỉ định trong điều trị bước một cho ung thư vú di căn hoặc tiến triển cục bộ trong phối hợp với 1 Anthracyclin cho bệnh nhân phù hợp với liệu pháp Anthracyclin hoặc phối hợp với trastuzumab cho bệnh nhân biểu hiện quá mức HER-2 ở mức độ 3+ xác định bằng hóa mô miễn dịch và cho các bệnh nhân không phù hợp với liệu pháp Anthracyclin (xem phần “Lưu ý” mục “Thận trọng khi dùng thuốc” và phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược lực học”).
Trong đơn trị liệu, Paclitaxel được chỉ định trong điều trị ung thư vú di căn cho bệnh nhân đã thất bại hoặc không phù hợp với liệu pháp Anthracyclin chuẩn.
Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)
Paclitaxel phối hợp với Cisplatin được chỉ định trong điều trị ung thư biểu mô phổi không tế bào nhỏ ở bệnh nhân không thể phẫu thuật triệt để và/hoặc không chiếu xạ được.
U Sarcom Kaposi ở bệnh nhân AIDS (KS)
Paclitaxel được chỉ định điều trị cho bệnh nhân AIDS bị u Sarcom Kaposi tiến triển đã thất bại với liệu pháp Anthracyclin dạng liposom trước đó.
Hiện các dữ liệu hạn chế về tính hiệu quả cho chỉ định này.
3. Cách dùng – liều dùng
– Cách dùng
Paclitaxel chỉ nên được sử dụng dưới sự giám sát chặt chẽ của thầy thuốc chuyên khoa ung bướu có kinh nghiệm về hóa trị liệu chống ung thư.
Trước khi điều trị Paclitaxel, tất cả các bệnh nhân phải dùng trước các thuốc corticosteroid, kháng histamin, và thuốc đối kháng H2,…
Thuốc | Liều dùng | Cách dùng trước khi dùng Paclitaxel |
Dexamethason | 20 mg uống* hoặc truyền tĩnh mạch | Dùng theo đường uống: khoảng 12 và 6 giờ hoặc truyền tĩnh mạch: 30 đến 60 phút |
Diphenhydramin** | 50 mg truyền tĩnh mạch | 30 đến 60 phút |
Cimetidin hoặc Ranitidin | 300 mg truyền tĩnh mạch 50 mg truyền tĩnh mạch | 30 đến 60 phút
|
* 8-20 mg cho bệnh nhân KS. **hoặc một thuốc kháng histamin tương tự, ví dụ clorpheniramin. |
Paclitaxel nên được truyền tĩnh mạch qua thiết bị lọc có màng vi ống đường kính ≤0,22 μm.
Thao tác dùng thuốc
Như tất cả các thuốc chống ung thư khác, nên thận trọng khi thao tác với Paclitaxel. Thuốc chỉ pha trong điều kiện vô khuẩn bởi nhân viên y tế có kinh nghiệm và trong khu vực được thiết kế chuyên biệt.
Khuyến cáo sử dụng găng tay bảo vệ. Nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa để tránh thuốc tiếp xúc với da và niêm mạc. Nếu Paclitaxel tiếp xúc với da, cần rửa sạch và kỹ vùng da bị tiếp xúc với thuốc bằng xà phòng và nước. Đã quan sát thấy vùng da sau khi tiếp xúc với thuốc bị ngứa, rát và đỏ. Nếu niêm mạc bị dính Paclitaxel, phải rửa kỹ vùng bị tiếp xúc bằng nước.
Đã ghi nhận hiện tượng khó thở, đau ngực, nóng rát họng, nôn mửa khi hít phải thuốc.
Không nên sử dụng thiết bị Chemo-Dispensing Pin hoặc các thiết bị tương tự có mũi nhọn do có thể làm hỏng nắp cao su của lọ thuốc dẫn đến thuốc không còn được vô trùng.
Chuẩn bị dịch truyền
Trước khi truyền, phải pha loãng Paclitaxel trong điều kiện vô khuẩn với dung dịch natri clorid đẳng trương 0,9% hoặc dung dịch glucose 5% đến nồng độ cuối 0,3 – 1,2mg Paclitaxel/ml để làm dịch truyền.
Bảo quản dung dịch sau pha:
- Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền Paclitaxel đã pha trong dung dịch glucose 5% và natri clorid 0,9% là 2 tuần nếu bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 5°C ± 3°C.
- Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền Paclitaxel đã pha trong dung dịch glucose 5% là 1 tuần nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng (20°C ± 3°C), không tránh ánh sáng.
- Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền Paclitaxel đã pha trong dung dịch natri clorid 0,9% là 5 ngày nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng, không tránh ánh sáng.
Sau khi chuẩn bị, dung dịch có thể hình thành các vết do dung môi bị cô đặc; các vết này không thể loại bỏ bằng thiết bị lọc. Dung dịch truyền Paclitaxel phải được truyền qua bộ lọc (thiết bị lọc trong đường truyền) với kích thước lỗ màng ≤ 0,22 microgram. Đã ghi nhận được hiệu lực của thuốc không bị giảm trong một thử nghiệm với hệ thống lọc trong đường truyền thích hợp.
Đã có một số lượng hiếm báo cáo về kết tủa trong khi truyền Paclitaxel, thường vào cuối 24 giờ truyền. Mặc dù nguyên nhân gây ra kết tủa chưa rõ ràng, có khả năng do mức độ quá bão hòa của dung dịch sau khi pha loãng. Để làm giảm nguy cơ xuất hiện kết tủa, nên dùng Paclitaxel sớm nhất có thể sau khi đã pha loãng dung dịch để truyền, và tránh lắc thuốc quá mạnh.
Bộ truyền phải được phụt rửa kỹ trước khi sử dụng. Trong quá trình truyền, nên kiểm tra dịch truyền thường xuyên và nếu có xuất hiện kết tủa nên ngừng truyền.
Để hạn chế bệnh nhân phơi nhiễm với DEHP [bis (2-ethylhexyl) phthalat] nhiễm từ túi nhựa PVC đựng dịch truyền hoặc từ dụng cụ truyền, dung dịch đã pha loãng Paclitaxel phải được bảo quản trong các bao bì (thủy tinh, polyethylen) không chứa PVC hoặc làm bằng PVC và thuốc được truyền qua dây bằng polyethylen. Dụng cụ lọc (ví dụ lvex-2) có đầu vào hoặc đầu ra ngắn bằng PVC không làm giải phóng có ý nghĩa DEHP.
Xử lý thuốc
Paclitaxel không dùng đến và tất cả các dụng cụ được sử dụng để chuẩn bị và truyền Paclitaxel hoặc đã tiếp xúc với Paclitaxel cần phải được xử lý theo các hướng dẫn quốc gia/địa phương về xử lý các chất độc tế bào.
– Liều dùng
Hóa trị liệu bước một ung thư biểu mô buồng trứng
Mặc dù các chế độ liều khác đang được đánh giá, liều điều trị phối hợp Paclitaxel và Cisplatin được khuyến cáo sử dụng. Theo khoảng thời gian truyền tĩnh mạch, có 2 mức liều Paclitaxel được khuyến cáo: Paclitaxel 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, tiếp theo đó là Cisplatin 75 mg/m2 3 tuần 1 lần hoặc Paclitaxel 135 mg/m2 truyền tĩnh mạch 24 giờ, tiếp theo đó Cisplatin 75 mg/m2 điều trị cách quãng 3 tuần giữa 2 đợt điều trị (xem phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược lực học”).
Phác đồ hóa trị bước hai cho ung thư biểu mô buồng trứng
Liều khuyến cáo của Paclitaxel là 175 mg/m2 dùng trong 3 giờ, có thời gian cách quãng 3 tuần giữa các đợt.
Hóa trị hỗ trợ trong ung thư vú
Liều khuyến cáo của Paclitaxel là 175 mg/m2 dùng trong 3 giờ, 3 tuần 1 đợt trong 4 đợt sau khi điều trị AC.
Hóa trị bước một cho ung thư vú
Khi sử dụng phối hợp với doxorubicin (50 mg/m2), Paclitaxel được chỉ định điều trị 24 giờ sau khi dùng doxorubicin. Liều khuyến cáo của Paclitaxel là 220 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, cách quãng 3 tuần giữa các đợt (xem phần “Lưu ý” mục “Tương tác, tương kỵ của thuốc” và phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược lực học”).
Khi dùng phối hợp với trastuzumab, liều khuyến cáo của Paclitaxel là 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, cách quãng 3 tuần giữa các đợt (xem phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược lực học”). Truyền tĩnh mạch Paclitaxel có thể bắt đầu từ sau ngày dùng trastuzumab liều đầu hoặc ngay sau khi dùng các liều tiếp theo của trastuzumab nếu như liều trastuzumab trước đó được dung nạp tốt (để biết liều dùng cụ thể của trastuzumab xem tóm tắt đặc tính của trastuzumab).
Phác đồ hóa trị bước hai của ung thư vú
Liều khuyến cáo của Paclitaxel là 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ với khoảng cách 3 tuần giữa các đợt.
Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển
Paclitaxel 175 mg/m2 dùng trong 3 giờ, tiếp theo là Cisplatin 80 mg/m2; với khoảng cách 3 tuần giữa các đợt.
Điều trị sarcom Kaposi ở bệnh nhân AIDS
Liều khuyến cáo của Paclitaxel là 100 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, 2 tuần 1 lần.
Các liều kế tiếp của Paclitaxel nên được chỉ định theo khả năng dung nạp thuốc của các cá nhân. Paclitaxel không nên chỉ định lại cho đến khi lượng bạch cầu trung tính ≥1.500/mm3 (≥1.000/mm3 cho bệnh nhân KS) và số lượng tiểu cầu >100.000/mm3 (>75.000/mm3 cho bệnh nhân KS). Bệnh nhân đã bị giảm bạch cầu trung tính nặng (lượng bạch cầu trung tính <500/mm3 trong 1 tuần hoặc dài hơn) hoặc bệnh nhân bị thần kinh ngoại vi nặng nên được giảm liều xuống 20% cho các đợt điều trị tiếp theo (25% cho bệnh nhân KS) (xem phần “Lưu ý” mục “Thận trọng khi dùng thuốc”).
– Đối tượng đặc biệt
Bệnh nhân suy gan
Chưa có số liệu đầy đủ về sự thay đổi chế độ liều ở bệnh nhân suy gan mức độ nhẹ đến trung bình (xem phần “Lưu ý” mục “Thận trọng khi dùng thuốc” và phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược lực học”).
Bệnh nhân bị suy gan nặng không nên điều trị Paclitaxel.
Bệnh nhân nhi
Paclitaxel không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ em dưới 18 tuổi do chưa đủ dữ liệu về tính an toàn và hiệu quả.
– Quá liều
Chưa có thuốc giải độc khi dùng quá liều Paclitaxel.
Trong trường hợp quá liều, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ. Điều trị cần được hướng vào các độc tính chính được dự đoán trước, trong đó bao gồm ức chế tủy xương, nhiễm độc thần kinh ngoại vi và viêm niêm mạc.
Quá liều ở bệnh nhi có thể được liên quan đến độc tính cấp của ethanol.
4. Chống chỉ định
- Mẫn cảm với hoạt chất hoặc với bất kỳ tá dược nào của thuốc, đặc biệt với dầu thầu dầu polyoxyl (xem phần “Lưu ý” mục “Thận trọng khi dùng thuốc”).
- Không dùng Paclitaxel ở người có lượng bạch cầu đa nhân trung tính trước điều trị <1.500/mm3 (<1.000/mm3 cho bệnh nhân u Sarcom Kaposi).
- Paclitaxel chống chỉ định cho phụ nữ con bú (xem phần “Lưu ý” mục “Phụ nữ mang thai và cho con bú”).
- Paclitaxel cũng bị chống chỉ định cho bệnh nhân KS bị nhiễm khuẩn nặng, không kiểm soát được.
- Bệnh nhân suy gan nặng không nên điều trị với Paclitaxel.
5. Tác dụng phụ
Điều trị Paclitaxel đơn trị liệu
Trừ trường hợp có lưu ý, những bàn luận sau đây đề cập đến cơ sở dữ liệu về độ an toàn chung của khoảng 812 bệnh nhân có khối u đặc điều trị Paclitaxel đơn trị liệu trong các nghiên cứu lâm sàng. Vì nhóm bệnh nhân KS rất đặc biệt cho nên một phần riêng dựa trên 100 bệnh nhân nghiên cứu được đưa ra cuối mục này.
Tần suất và mức độ nặng của các tác dụng không mong muốn nhìn chung là tương tự giữa các bệnh nhân dùng Paclitaxel cho điều trị bệnh nhân ung thư buồng trứng, ung thư vú, hoặc NSCLC. Không có độc tính quan sát được bị ảnh hưởng rõ ràng theo độ tuổi.
Phản ứng quá mẫn rõ rệt có khả năng gây tử vong (được định nghĩa là hạ huyết áp cần thiết can thiệp điều trị, phù mạch, suy hô hấp cần điều trị giãn phế quản, hoặc mề đay toàn thân) xảy ra ở 2 bệnh nhân (<1%). 34% bệnh nhân (17% trên tổng số đợt điều trị) gặp các phản ứng mẫn cảm nhẹ. Các phản ứng mẫn cảm nhẹ, chủ yếu là đỏ bừng và phát ban, không cần can thiệp điều trị cũng như không ảnh hưởng đến việc tiếp tục duy trì điều trị với Paclitaxel.
Tác dụng phụ thường gặp nhất là ức chế tủy xương. Giảm bạch cầu trung tính nặng (<500 tế bào/mm3) xuất hiện ở 28% bệnh nhân, nhưng không liên quan đến các cơn sốt. Chỉ 1% số bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính nặng ≥7 ngày.
Giảm tiểu cầu xuất hiện trên 11% bệnh nhân. 3% bệnh nhân có số tiểu cầu giảm < 50.000/mm3 ít nhất 1 lần trong nghiên cứu.
Thiếu máu xuất hiện ở 64% bệnh nhân nhưng mức độ nặng (Hb < 5mmol/l) chỉ gặp ở 6% bệnh nhân. Tỉ lệ mắc và mức độ thiếu máu có liên quan đến tình trạng hemoglobin trước điều trị.
Độc tính thần kinh, chủ yếu là bệnh thần kinh ngoại vi, có vẻ thường gặp và nặng hơn khi tiêm truyền 175 mg/m2 Paclitaxel trong 3 giờ (85% độc thần kinh, 15% nặng) so với truyền tĩnh mạch 135 mg/m2 trong 24 giờ (25% bị bệnh thần kinh ngoại vi, 3% nặng) khi phối hợp với Cisplatin. Ở bệnh nhân NSCLC và bệnh nhân ung thư buồng trứng điều trị Paclitaxel trong 3 giờ sau đó dùng Cisplatin, tỉ lệ mắc độc tính thần kinh nặng tăng lên rõ rệt. Bệnh thần kinh ngoại vi có thể xảy ra sau đợt điều trị đầu tiên và có thể nặng hơn khi tiếp tục dùng Paclitaxel. Bệnh thần kinh ngoại vi là nguyên nhân ngừng sử dụng Paclitaxel trong một số ít trường hợp. Các triệu chứng về cảm giác thường được cải thiện và hồi phục trong vòng vài tháng sau khi ngừng điều trị Paclitaxel. Các bệnh thần kinh có từ trước do các liệu pháp điều trị trước đó không phải là chống chỉ định của liệu pháp điều trị Paclitaxel.
Chứng đau khớp hoặc đau cơ ảnh hưởng đến 60% số bệnh nhân trong đó 13% bệnh nhân ở mức độ nặng.
Phản ứng tại chỗ tiêm trong khi truyền tĩnh mạch có thể dẫn đến phù cục bộ, đau, ban đỏ, và cứng; hơn nữa, thoát mạch có thể gây viêm mô tế bào. Bong da và/hoặc lột da đã được báo cáo lại, đôi khi có liên quan đến hiện tượng thoát mạch. Rối loạn sắc tố cũng có thể xảy ra. Hiện tượng tái phát các phản ứng da tại một vị trí thoát mạch trước đó sau khi dùng Paclitaxel ở một vị trí khác rất hiếm khi gặp. Phương pháp điều trị đặc biệt cho các phản ứng thoát mạch hiện chưa rõ. Trong một số trường hợp, phản ứng tại vị trí tiêm khởi phát trong quá trình truyền kéo dài hoặc xuất hiện muộn sau một tuần đến 10 ngày.
Rụng tóc đã được quan sát ở 87% bệnh nhân và xuất hiện đột ngột. Phần lớn các bệnh nhân rụng tóc có rụng tóc rõ rệt ≥50%.
Dưới đây liệt kê các tác dụng không mong muốn liên quan với tiêm truyền Paclitaxel đơn trị liệu trong 3 giờ của nhóm bệnh di căn (812 bệnh nhân điều trị trong các thử nghiệm lâm sàng) và số liệu được báo cáo trong quá trình giám sát sau khi lưu hành Paclitaxel*.
Tần suất gặp các tác dụng phụ được liệt kê dưới đây sử dụng qui ước sau: Rất thường gặp (≥1/10); thường gặp (≥1/100 đến < 1/10); ít gặp (≥1/1.000 đến < 1/100); hiếm gặp (≥1/10.000 đến < 1/1.000); rất hiếm gặp (< 1/10.000). Trong mỗi nhóm tần số, tác dụng không mong muốn được trình bày theo thứ tự giảm dần mức độ nghiêm trọng.
Nhiễm trùng và nhiễm ký sinh trùng
- Rất thường gặp: Nhiễm trùng (chủ yếu là nhiễm trùng đường tiểu và đường hô hấp trên), với một số trường hợp có báo cáo tử vong.
- Ít gặp: Sốc nhiễm trùng.
- Hiếm gặp: Nhiễm khuẩn huyết*, viêm phúc mạc*, viêm phổi*.
Rối loạn máu và hệ thống bạch huyết
- Rất thường gặp: Suy tủy, giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, chảy máu.
- Hiếm gặp: Giảm bạch cầu trung tính có sốt*.
- Rất hiếm gặp: Ung thư bạch cầu cấp dòng tủy *, hội chứng loạn sản tủy*.
- Chưa biết: Đông máu rải rác nội mạch. Đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC), thường liên quan đến nhiễm khuẩn huyết hay suy đa tạng đã được báo cáo.
Rối loạn hệ thống miễn dịch
- Rất thường gặp: Các phản ứng mẫn cảm nhẹ (chủ yếu là đỏ bừng và phát ban).
- Ít gặp: Các phản ứng mẫn cảm rõ rệt cần phải điều trị (như hạ huyết áp, phù nề mạch thần kinh, suy hô hấp, mày đay lan tỏa, rét run, đau lưng, đau ngực, tim nhịp nhanh, đau bụng, đau ở chi, toát mồ hôi và tăng huyết áp).
- Hiếm gặp: Các phản ứng phản vệ*.
- Rất hiếm gặp: Sốc phản vệ*.
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng
- Rất hiếm gặp: Chán ăn*.
- Chưa biết: Hội chứng ly giải khối u*.
Rối loạn tâm thần
- Rất hiếm gặp: Lẫn lộn*.
Rối loạn hệ thống thần kinh
- Rất thường gặp: Độc tính thần kinh (thường là bệnh thần kinh ngoại vi).
- Hiếm gặp: Bệnh thần kinh vận động (yếu cơ ngoại biên nhỏ)*.
- Rất hiếm gặp: Động kinh cơn lớn*, bệnh thần kinh tự chủ (dẫn đến tắc liệt ruột và hạ huyết áp thế đứng)*,#, bệnh não*, co giật*, chóng mặt*, mất điều vận, đau đầu*.
Rối loạn về mắt
- Rất hiếm gặp: Rối loạn dây thần kinh thị giác và/hoặc tầm nhìn (ám điểm nhấp nháy)* ở bệnh nhân được điều trị liều cao hơn so với khuyến cáo.
- Chưa biết: Phù hoàng điểm*, hoa mắt*, hiện tượng ruồi bay*.
Rối loạn về tai và mê đạo
- Rất hiếm gặp: Độc với thính giác*, nghe kém*, ù tai*, chóng mặt*.
Rối loạn tim
- Thường gặp: Nhịp tim chậm
- Ít gặp: Nhồi máu cơ tim, chẹn AV và ngất, bệnh cơ tim, nhịp nhanh thất không có triệu chứng, nhịp nhanh thất với mạch nhịp đôi.
- Hiếm gặp: Suy tim.
- Rất hiếm gặp: Rung nhĩ*, nhịp tim nhanh trên thất*.
Rối loạn mạch
- Rất phổ biến: Hạ huyết áp.
- Ít gặp: Huyết khối, tăng huyết áp, viêm tĩnh mạch huyết khối.
- Rất hiếm: Sốc*.
- Chưa rõ: Viêm tĩnh mạch*.
Rối loạn hô hấp, ở ngực và trung thất
- Hiếm gặp: Suy hô hấp*, nghẽn mạch phổi*, xơ hóa phổi*, viêm phổi kẽ*, khó thở*, tràn dịch màng phổi*.
- Rất hiếm: Ho*.
Rối loạn dạ dày ruột
- Rất thường gặp: Tiêu chảy, nôn, buồn nôn, viêm niêm mạc.
- Hiếm gặp: Tắc ruột*, thủng ruột*, viêm đại tràng thiếu máu cục bộ*, viêm tụy*.
- Rất hiếm: Huyết khối mạc treo ruột*, viêm đại tràng màng giả*, viêm đại tràng giảm bạch cầu trung tính*, cổ trướng*, viêm thực quản*, táo bón*.
Rối loạn gan mật
- Rất hiếm: Hoại tử gan*, bệnh não do gan* (cả 2 đều có trường hợp báo cáo tử vong).
Rối loạn da và mô dưới da
- Rất thường gặp: Rụng lông tóc.
- Thường gặp: Thay đổi trên da và móng nhẹ và tạm thời.
- Hiếm gặp: Mẩn ngứa*, phát ban*, ban đỏ*.
- Rất hiếm: Hội chứng Steven-Johnson*, hoại tử biểu bì*, ban đỏ đa hình*, tróc vảy*, viêm da*, mày đay*, bong móng (bệnh nhân được điều trị nên mặc đồ chống ánh sáng mặt trời ở tay và chân*).
- Chưa biết: Xơ cứng bì*, hội chứng bàn tay chân*.
Rối loạn cơ xương và mô liên kết
- Rất thường gặp: Đau cơ, đau khớp.
- Chưa biết: Lupus ban đỏ hệ thống*.
Rối loạn toàn thân và rối loạn tại chỗ tiêm:
- Thường gặp: Phản ứng tại chỗ tiêm (bao gồm phù cục bộ, đau, ban đỏ, cứng, thoát mạch dẫn đến viêm mô tế bào, xơ hóa da và hoại tử da).
- Hiếm gặp: Sốt*, mất nước*, suy nhược*, phù*, khó chịu*.
Xét nghiệm
- Thường gặp: Tăng cao AST (SGOT), alkalin phosphatase tăng cao.
- Ít gặp: Bilirubin tăng cao.
- Hiếm gặp: Tăng creatinin máu*.
Ghi chú
- *: Các số liệu giám sát sau lưu hành được quy cho Paclitaxel bất kể chế độ điều trị.
- #: Có thể vẫn còn tồn tại trên 6 tháng sau khi ngừng Paclitaxel
Bệnh nhân ung thư vú điều trị Paclitaxel hỗ trợ sau liệu pháp AC cho thấy độc tính trên thần kinh cảm giác, các phản ứng quá mẫn, đau cơ/đau khớp, thiếu máu, nhiễm trùng, sốt, buồn nôn/nôn và tiêu chảy nhiều hơn là bệnh nhân chỉ điều trị AC. Tuy nhiên, tần suất gặp các tác dụng phụ này phù hợp với việc điều trị bằng Paclitaxel đơn độc, như đã trình bày ở trên.
Điều trị phối hợp
Những bàn luận sau đây đề cập đến 2 thử nghiệm lâm sàng chính trong hóa trị bước một ung thư buồng trứng (Paclitaxel + Cisplatin: trên 1.050 bệnh nhân), 2 thử nghiệm pha III trong hóa trị bước một ung thư vú di căn: một nghiên cứu về sự phối hợp với doxorubicin (Paclitaxel + doxorubicin: 267 bệnh nhân), một nghiên cứu về sự phối hợp với trastuzumab (phân tích phân nhóm Paclitaxel + trastuzumab: 188 bệnh nhân) và 2 thử nghiệm pha III cho điều trị NSLC tiến triển (Paclitaxel + Cisplatin: trên 360 bệnh nhân) (xem phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược động học”).
Khi truyền tĩnh mạch trong 3 giờ cho hóa trị bước một ung thư buồng trứng, độc tính thần kinh, đau cơ/đau khớp, và mẫn cảm ở bệnh nhân điều trị Paclitaxel sau đó dùng Cisplatin có tần xuất gặp cao hơn và nặng hơn ở bệnh nhân điều trị Cyclophosphamid sau đó dùng Cisplatin. Hiện tượng suy tủy khi truyền tĩnh mạch Paclitaxel trong 3 giờ sau khi dùng Cisplatin ít gặp hơn và nhẹ hơn so với dùng Cyclophosphamid sau đó dùng Cisplatin.
Trong hóa trị bước một cho ung thư vú di căn, giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, bệnh thần kinh ngoại vi, đau cơ/đau khớp, suy nhược, sốt, và tiêu chảy được báo cáo là có tần suất gặp cao hơn và nặng hơn khi truyền tĩnh mạch Paclitaxel (220 mg/m2) trong 3 giờ cách 24 giờ sau khi tiêm truyền doxorubicin (50 mg/m2) so với liệu pháp FAC chuẩn (5-FU 500 mg/m2, doxorubicin 50 mg/m2, Cyclophosphamid 500 mg/m2). Buồn nôn và nôn trong chế độ Paclitaxel (220 mg/m2) / doxorubicin (50 mg/m2) ít gặp hơn và nhẹ hơn so với liệu pháp FAC chuẩn. Việc sử dụng corticosteroid có thể góp phần làm giảm tần suất và mức độ nặng của nôn và buồn nôn của liệu trình Paclitaxel/doxorubicin.
Khi Paclitaxel truyền tĩnh mạch trong 3 giờ phối hợp với trastuzumab trong điều trị bước một cho bệnh nhân ung thư vú di căn, những tác dụng phụ sau (có thể có liên quan tới Paclitaxel hoặc trastuzumab) được báo cáo là thường gặp hơn so với Paclitaxel đơn trị liệu: suy tim (8% so với 1%), nhiễm trùng (46% so với 27%), rét run (42% so với 4%), sốt (47% so với 23%), ho (42% so với 22%), phát ban (39% so với 18%), đau khớp (37% so với 21%), tim đập nhanh (12% so với 4%), tiêu chảy (45% so với 30%), tăng trương lực cơ (11% so với 3%), chảy máu cam (18% so với 4%), mụn trứng cá (11% so với 3%), herpes (12% so với 3%), tổn thương do tai nạn (13% so với 3%), mất ngủ (25% so với 13%), viêm mũi (22% so với 5%), viêm xoang (21% so với 7%), và phản ứng tại chỗ tiêm (7% so với 1%).
Một số trường hợp trong những khác biệt này có thể là do số lượng và khoảng thời gian điều trị phối hợp Paclitaxel/trastuzumab tăng so với Paclitaxel đơn trị liệu. Một số phản ứng nặng được ghi nhận có cùng tỉ lệ ở cả 2 nhóm Paclitaxel/trastuzumab và Paclitaxel đơn trị liệu.
Khi doxorubicin dùng phối hợp với Paclitaxel trong ung thư vú di căn, đã quan sát thấy co cơ tim bất thường (giảm ≥ 20% phân suất tống máu tâm thất trái) ở 15% bệnh nhân so với 10% bệnh nhân dùng phác đồ FAC tiêu chuẩn.
Suy tim xung huyết được nhận thấy ở < 1% số bệnh nhân cho cả 2 nhóm Paclitaxel/doxorubicin và FAC tiêu chuẩn.
Việc điều trị trastuzumab phối hợp với Paclitaxel cho bệnh nhân trước đó đã điều trị Anthracyclin làm tăng tần số và độ nặng của rối loạn chức năng tim so với bệnh nhân điều trị Paclitaxel đơn độc (NYHA loại I/II 10% so với 0%; NYHA loại III/IV 2% so với 1%) và hiếm có liên quan đến tử vong (xem tóm tắt đặc tính của Trastuzumab). Bệnh nhân thường đáp ứng với điều trị y tế thích hợp.
Viêm phổi do chiếu xạ được báo cáo ở bệnh nhân xạ trị đồng thời.
Sarcom Kaposi có liên quan đến AIDS
Trừ các tác dụng phụ trên gan và máu (xem dưới đây), tần suất và mức độ gặp các tác dụng phụ là tương tự giữa nhóm bệnh nhân KS và bệnh nhân điều trị Paclitaxel đơn trị liệu cho các khối u đặc, dựa trên một nghiên cứu lâm sàng bao gồm 107 bệnh nhân.
Rối loạn máu và hệ bạch huyết
Suy tủy xương là một độc tính chủ yếu giới hạn vào liều. Giảm bạch cầu trung tính là độc tính quan trọng nhất trên máu. Trong suốt đợt điều trị đầu tiên, chứng giảm bạch cầu trung tính nặng (<500 tế bào/mm3) xảy ra trên 20% bệnh nhân. Trong toàn bộ quá trình điều trị, chứng giảm bạch cầu trung tính nặng nhận thấy trên 39% số bệnh nhân. Giảm bạch cầu trung tính tồn tại > 7 ngày ở 41% và trong 30-35 ngày trên 8% bệnh nhân. Giảm bạch cầu trung tính hồi phục trong vòng 35 ngày ở tất cả các bệnh nhân được theo dõi. Tỉ lệ mắc giảm bạch cầu trung tính mức độ 4 kéo dài ≥ 7 ngày là 22%.
Sốt do giảm bạch cầu trung tính có liên quan đến Paclitaxel được ghi lại trên 14% số bệnh nhân và trong 1,3% số đợt điều trị. Có 3 trường hợp bị nhiễm khuẩn (2,8%) trong khi dùng Paclitaxel có liên quan đến thuốc gây tử vong.
Giảm tiểu cầu được nhận thấy trên 50% bệnh nhân, và nặng (< 50.000 tế bào/mm3) trên 9%. Chỉ 14% bị giảm tiểu cầu xuống < 75.000 tế bào/mm3, ít nhất một lần trong khi điều trị. Hiện tượng chảy máu có liên quan đến Paclitaxel được báo cáo < 3% số bệnh nhân, nhưng chỉ xuất huyết khu trú.
Thiếu máu (Hb < 11g/dl) nhận thấy trên 61% bệnh nhân và nặng (Hb < 8 g/dl) trên 10%. Truyền máu được yêu cầu trên 21% bệnh nhân.
Rối loạn gan mật
Trong số các bệnh nhân (> 50% có dùng thuốc ức chế protease) có chức năng gan bình thường trước điều trị, 28%, 43% và 44% có biểu hiện tăng bilirubin, alkalin phosphatase và AST (SGOT) tương ứng. Với mỗi thông số này, mức độ tăng nặng gặp ở 1% số bệnh nhân.
6. Lưu ý |
– Thận trọng khi dùng thuốcCảnh báo khi sử dụng Paclitaxel chỉ được sử dụng dưới sự giám sát chặt chẽ của thầy thuốc chuyên khoa có kinh nghiệm về hóa trị liệu ung thư. Do có thể gặp các phản ứng quá mẫn nặng cho nên cần có các thiết bị hỗ trợ thích hợp. Do có khả năng thoát mạch, thuốc được khuyến cáo phải theo dõi chặt chẽ sự thâm nhiễm có thể xảy ra tại vị trí truyền. Bệnh nhân cần được điều trị trước bằng các thuốc corticoid, kháng histamin, thuốc đối kháng H2 (xem phần “Cách dùng – Liều dùng”). Khi phối hợp với Cisplatin, phải dùng Paclitaxel trước Cisplatin (xem phần “Lưu ý” mục “Tương tác, tương kỵ của thuốc”). Phản ứng quá mẫn Các phản ứng quá mẫn rõ rệt có đặc điểm khó thở, hạ huyết áp cần điều trị, phù mạch và mày đay lan tỏa, xảy ra ở <1% bệnh nhân dùng Paclitaxel sau khi đã dùng trước đó các thuốc thích hợp. Các phản ứng này có thể do trung gian histamin. Nếu gặp các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng cần ngưng truyền Paclitaxel ngay lập tức, bắt đầu điều trị triệu chứng và bệnh nhân không nên dùng lại thuốc này nữa. Suy tủy xương Suy tủy xương (chủ yếu là giảm bạch cầu trung tính) là độc tính tùy thuộc liều lượng. Trong thời gian truyền Paclitaxel, cần luôn luôn theo dõi công thức máu. Bệnh nhân không được dùng lại thuốc cho đến khi bạch cầu trung tính phục hồi về mức ≥1.500/mm3 (≥1.000/mm3 cho bệnh nhân KS) và tiểu cầu đạt mức ≥100.000/mm3 (≥75.000/mm3 cho bệnh nhân KS). Trong nghiên cứu lâm sàng KS, phần lớn các bệnh nhân có sử dụng yếu tố kích thích tăng sinh bạch cầu hạt (G-CSF). Suy gan Bệnh nhân suy gan có thể có nguy cơ độc tính cao hơn, đặc biệt là suy tủy mức độ 3-4. Không có bằng chứng cho thấy độc tính của Paclitaxel tăng lên khi tiêm truyền trong 3 giờ cho bệnh nhân có rối loạn chức năng gan nhẹ. Khi Paclitaxel được truyền tĩnh mạch lâu hơn, hiện tượng suy tủy nặng hơn có thể thấy ở bệnh nhân suy gan mức độ vừa đến nặng. Cần phải kiểm soát chặt chẽ sự phát triển của suy tủy (xem phần “Cách dùng – Liều dùng”). Không đủ dữ liệu về khuyến cáo thay đổi liều ở bệnh nhân suy gan mức độ nhẹ đến vừa (xem phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược động học”). Không có dữ liệu về bệnh nhân bị ứ mật nặng trước điều trị. Bệnh nhân suy gan nặng không nên dùng Paclitaxel. Tim mạch Bất thường nghiêm trọng về dẫn truyền tim hiếm gặp trong đơn trị liệu Paclitaxel. Nếu bệnh nhân bị bất thường rõ rệt về dẫn truyền tim trong thời kỳ dùng Paclitaxel cần có biện pháp điều trị thích hợp và luôn luôn theo dõi tim khi tiếp tục dùng Paclitaxel. Khi dùng Paclitaxel, có gặp hạ huyết áp hoặc tăng huyết áp, nhịp tim chậm. Bệnh nhân thường không có triệu chứng và nhìn chung không cần điều trị. Cần theo dõi thường xuyên dấu hiệu sống, đặc biệt trong giờ đầu khi truyền Paclitaxel. Các biến cố nghiêm trọng về tim mạch hay gặp hơn ở bệnh nhân NSCLC so với bệnh nhân ung thư biểu mô vú hoặc buồng trứng. Một trường hợp suy tim có liên quan tới Paclitaxel được phát hiện trong một nghiên cứu lâm sàng về AIDS-KS. Khi sử dụng phối hợp Paclitaxel với doxorubicin hoặc trastuzumab trong hóa trị ban đầu ung thư vú di căn, nên chú ý theo dõi chức năng tim. Khi bệnh nhân được chỉ định điều trị Paclitaxel trong những phối hợp thuốc này, họ cần phải được đánh giá tim mạch trước khi điều trị bao gồm tiền sử, thăm khám lâm sàng, ECG, siêu âm tim và/hoặc scan MUGA. Chức năng tim nên được tiếp tục theo dõi trong suốt quá trình điều trị (ví dụ mỗi 3 tháng). Việc giám sát có thể giúp nhận biết bệnh nhân bị rối loạn chức năng tim và bác sĩ điều trị nên có đánh giá kĩ lưỡng về liều tích lũy của Anthracyclin (mg/m2) khi đưa ra quyết định về tần suất đánh giá chức năng tâm thất. Khi xét nghiệm cho thấy sự suy giảm chức năng tim, ngay cả khi không có triệu chứng, các bác sĩ điều trị nên đánh giá cẩn thận lợi ích lâm sàng của các liệu pháp điều trị so với khả năng gây ra tổn thương trên tim mạch bao gồm cả những tổn thương có thể không hồi phục. Nếu tiếp tục điều trị, việc theo dõi chức năng tim nên tiến hành thường xuyên hơn (ví dụ sau mỗi 1-2 đợt điều trị). Thần kinh ngoại biên Mặc dù hay gặp bệnh thần kinh ngoại biên, nhưng hiếm gặp các triệu chứng nghiêm trọng. Trong một số trường hợp nặng, khuyến cáo giảm 20% liều lượng (25% cho bệnh nhân KS) trong tất cả những lần dùng tiếp theo của Paclitaxel. Với bệnh nhân NSCLC và bệnh nhân ung thư buồng trứng được điều trị bước một, việc phối hợp truyền tĩnh mạch Paclitaxel trong 3 giờ với Cisplatin sẽ làm tăng tỷ lệ độc tính nặng với thần kinh khi so với dùng đơn độc Paclitaxel và điều trị Cyclophosphamid sau khi dùng Cisplatin. Thận trọng khác Đặc biệt cẩn trọng để tránh tiêm Paclitaxel vào động mạch vì trong các nghiên cứu trên động vật về sự dung nạp thuốc cục bộ, các phản ứng nặng trên mô được nhận thấy sau khi tiêm vào động mạch. Paclitaxel phối hợp với chiếu xạ phổi, không kể trình tự tiến hành, có thể góp phần vào sự phát triển của viêm phổi kẽ. Viêm đại tràng giả mạc hiếm gặp bao gồm các trường hợp bệnh nhân không được điều trị phối hợp với kháng sinh. Phản ứng này nên được xem xét khi chẩn đoán phân biệt các trường hợp tiêu chảy nặng hoặc kéo dài xảy ra trong quá trình hoặc một thời gian ngắn điều trị bằng Paclitaxel. Ở bệnh nhân KS hiếm gặp viêm niêm mạc nặng. Nếu các phản ứng nghiêm trọng xảy ra, liều Paclitaxel nên giảm 25%. Do Paclitaxel chứa ethanol (396 mg/ml) cho nên có thể gặp các tác dụng trên thần kinh trung ương và các tác dụng khác. – Phụ nữ có thai và cho con búKhông có đầy đủ thông tin về sử dụng Paclitaxel ở người mang thai. Paclitaxel được chỉ ra là gây độc cho phôi thai và gây quái thai ở thỏ, và gây giảm khả năng sinh sản ở chuột. Cũng như các thuốc độc tế bào khác, Paclitaxel có thể gây hại cho thai khi sử dụng ở phụ nữ có thai. Vì vậy, không nên sử dụng Paclitaxel trong quá trình mang thai trừ khi thật cần thiết. Phụ nữ có khả năng có thai mà đã dùng Paclitaxel nên được khuyên để tránh mang thai và cần phải thông báo cho bác sĩ điều trị ngay khi mang thai. Bệnh nhân nam và nữ trong độ tuổi sinh đẻ và/hoặc đối tác của họ nên sử dụng biện pháp tránh thai ít nhất 6 tháng sau khi điều trị với Paclitaxel. Bệnh nhân nam nên tìm tư vấn về việc dự trữ tinh trùng trước khi điều trị với Paclitaxel do khả năng vô sinh. Chống chỉ định dùng Paclitaxel khi cho con bú (xem phần “Chống chỉ định”). Chưa rõ Paclitaxel có bài tiết qua sữa mẹ hay không. Nên ngừng cho con bú trong quá trình điều trị. – Khả năng lái xe và vận hành máy mócChưa có chứng minh về ảnh hưởng của Paclitaxel tới khả năng này. Tuy nhiên, nên thận trọng do sản phẩm có chứa alcohol. – Tương tác, tương kỵ của thuốcCisplatin Chế độ khuyến cáo của Paclitaxel trong hóa trị liệu bước một cho ung thư buồng trứng là dùng Paclitaxel trước Cisplatin. Khi Paclitaxel được dùng trước Cisplatin, đặc tính an toàn của Paclitaxel tương đương với tính an toàn khi dùng Paclitaxel đơn độc. Khi Paclitaxel được dùng sau Cisplatin, nhận thấy bệnh nhân bị suy tủy nặng hơn và độ thanh thải giảm gần 20%. Bệnh nhân điều trị bằng Paclitaxel và Cisplatin có thể có nguy cơ suy thận cao hơn so với dùng Cisplatin đơn độc trong các ung thư phụ khoa. Doxorubicin Do hoạt động thải trừ của doxorubicin và các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó có thể bị giảm khi sử dụng Paclitaxel và doxorubicin trong thời gian gần nhau, do đó Paclitaxel trong hóa trị ban đầu cho ung thư vú di căn nên được dùng 24 giờ sau khi dùng doxorubicin (xem phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược động học”). Isoenzym cytochrome P450 Chuyển hóa của Paclitaxel được xúc tác một phần qua cytocrom P450 (isoenzym CYP2C8 và 3A4) (xem phần “Dược lý học” mục “Đặc tính dược động học”). Vì vậy, do thiếu dữ liệu nghiên cứu dược động học tương tác thuốc – thuốc, cần thận trọng khi dùng Paclitaxel cùng với thuốc đã biết là ức chế CYP2C8 hoặc 3A4 (ví dụ ketoconazol và thuốc kháng nấm imidazol khác, erythromycin, fluoxetin, gemfibrozil, clopidogrel, cimetidin, ritonavir, saquinavir, indinavir, và nelfinavir) do độc tính của Paclitaxel có thể tăng do tăng phơi nhiễm với Paclitaxel. Sử dụng đồng thời Paclitaxel với các thuốc đã biết cảm ứng với CYP2C8 hoặc CYP3A4 (như rifampicin, carbamazepin, phenytoin, efavirenz, nevirapin) không được khuyến cáo do hiệu quả có thể bị giảm do giảm mức phơi nhiễm với Paclitaxel. Độ thanh thải Paclitaxel không bị ảnh hưởng bởi cimetidin sử dụng trước đó. Các nghiên cứu trên bệnh nhân KS dùng đồng thời nhiều thuốc gợi ý rằng độ thanh thải toàn thân của Paclitaxel thấp hơn rõ rệt khi có mặt nelfinavir và ritonavir, nhưng không xảy ra với indinavir. Không có thông tin đầy đủ về tương tác với các chất ức chế protease khác. Vì vậy, Paclitaxel nên được chỉ định cẩn trọng ở bệnh nhân điều trị đồng thời với các thuốc ức chế protease. |
7. Dược lý
– Dược lực học (Tác động của thuốc lên cơ thể)
Nhóm dược lý: tác nhân chống ung thư (nhóm taxan).
Mã ATC: L01CD01.
Paclitaxel là tác nhân chống vi ống, thúc đẩy tập hợp các vi ống từ ống nhị trùng và cố định các vi ống do ngăn cản quá trình giải trùng hợp. Tác động này ức chế sự sắp xếp lại bình thường của lưới vi ống, là điều cốt yếu cho pha nghỉ (gian kỳ) và chức năng phân bào. Hơn nữa, Paclitaxel cũng thúc đẩy hình thành các cấu trúc bất thường của các bó vi ống trong suốt chu kỳ tế bào, và vô số các thể sao của vi ống trong thời kỳ phân bào.
Ung thư biểu mô buồng trứng
Trong hóa trị liệu điều trị ung thư buồng trứng, độ an toàn và hiệu quả của Paclitaxel được đánh giá trong 2 thử nghiệm chính, ngẫu nhiên, có đối chứng, (so với Cyclophosphamid 750 mg/m2, Cisplatin 75 mg/m2). Trong thử nghiệm giữa các nhóm (B-MS CA 139-209), trên 650 bệnh nhân ung thư buồng trứng nguyên phát giai đoạn IIb-c, III hoặc IV được điều trị tối đa 9 đợt Paclitaxel (175 mg/m2 trong 3 giờ) sau đó dùng Cisplatin (75 mg/m2) hoặc giả dược.
Thử nghiệm chính thứ 2 (GOG-111/BMS CA139-022) đã đánh giá trên tối đa 6 đợt điều trị Paclitaxel (135 mg/m2 trong 24 giờ) sau đó Cisplatin (75 mg/m2) hoặc giả dược trên hơn 400 bệnh nhân ung thư buồng trứng nguyên phát giai đoạn III/IV, với kích thước khối u > 1cm sau khi giải phẫu bụng hoặc di căn xa. Trong khi 2 cách dùng Paclitaxel khác nhau không so sánh trực tiếp được với nhau thì trong cả 2 thử nghiệm bệnh nhân điều trị Paclitaxel phối hợp với Cisplatin có tỉ lệ đáp ứng cao hơn rõ rệt, thời gian đến khi bệnh tiến triển dài hơn, thời gian sống còn dài hơn khi so sánh với liệu pháp tiêu chuẩn.
Trên các bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến triển được truyền tĩnh mạch Paclitaxel trong 3 giờ sau đó là Cisplatin cho thấy tăng độc tính thần kinh, đau cơ/ đau khớp nhưng lại giảm suy tủy so với bệnh nhân được điều trị Cyclophosphamid/Cisplatin.
Ung thư biểu mô vú
Trong điều trị hỗ trợ ung thư vú, 3.121 bệnh nhân ung thư vú có hạch dương tính được điều trị hỗ trợ bằng Paclitaxel hoặc không điều trị hóa trị sau 4 đợt điều trị doxorubicin và Cyclophosphamid (CALGB 9344, BMS CA 139-223). Thời gian theo dõi trung bình là 69 tháng. Nhìn chung, các bệnh nhân điều trị bằng Paclitaxel giảm rõ rệt 18% nguy cơ tái phát bệnh (p=0,0014) và giảm rõ rệt 19% nguy cơ tử vong (p=0,0044) so với các bệnh nhân điều trị AC đơn độc. Các phân tích hồi cứu chỉ ra lợi ích cho tất cả các nhóm bệnh nhân.
Các bệnh nhân có khối u chưa xác định hoặc không có thụ thể hormon, nguy cơ tái phát bệnh giảm 28% (95% CI: 0,59-0,86). Trong phân nhóm bệnh nhân có thụ thể hormon, nguy cơ tái phát bệnh giảm 9% (95% CI: 0,78-1,07). Tuy nhiên, thiết kế nghiên cứu không khảo sát tác dụng của liệu pháp AC mở rộng quá 4 đợt điều trị. Không thể loại trừ khả năng những tác dụng quan sát được có thể một phần là do sự khác biệt về khoảng thời gian điều trị hóa trị giữa 2 nhóm (AC 4 đợt điều trị; AC + Paclitaxel 8 đợt). Vì vậy, điều trị hỗ trợ bằng Paclitaxel nên được coi là một lựa chọn đối với liệu pháp AC mở rộng.
Trong một nghiên cứu lâm sàng lớn thứ 2 trong hỗ trợ điều trị ung thư vú có hạch dương tính với thiết kế tương tự, 3.060 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên để điều trị bằng 4 đợt điều trị AC (NSABP B-28, BMS CA139-270) và sau đó có hoặc không điều trị Paclitaxel với mức liều cao hơn là 225 mg/m2. Thời gian theo dõi trung bình là 64 tháng, các bệnh nhân dùng có điều trị bổ sung Paclitaxel giảm rõ rệt 17% nguy cơ tái phát bệnh so với nhóm bệnh nhân chỉ điều trị bằng AC (p=0,006); nhóm bệnh nhân được điều trị bổ sung Paclitaxel làm nguy cơ tử vong giảm 7% (95% CI: 0,78-1,12). Tất cả các phân tích dưới nhóm đều thiên về hướng có lợi cho nhóm dùng Paclitaxel. Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân có khối u có thụ thể hormon giảm nguy cơ tái phát bệnh 23% (95% CI: 0,6-0,92); trong phân nhóm bệnh nhân có khối u không có thụ thể hormon nguy cơ tái phát bệnh giảm 10% (95% CI: 0,7-1,11).
Trong điều trị bước một ung thư vú di căn, hiệu quả và độ an toàn của Paclitaxel được đánh giá trong 2 thử nghiệm then chốt pha III, ngẫu nhiên, nhãn mở có đối chứng.
Trong nghiên cứu đầu tiên (BMS CA139-278), phác đồ phối hợp điều trị bằng tiêm nhanh doxorubicin (50mg/m2) và 24 giờ sau truyền tiếp Paclitaxel (220 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ) (AT), được so sánh với điều trị chuẩn FAC (5-FU 500 mg/m2, doxorubicin 50 mg/m2, Cyclophosphamid 500 mg/m2), cả 2 chế độ đều được áp dụng 3 tuần 1 lần cho 8 đợt điều trị. Trong thử nghiệm ngẫu nhiên này, 267 bệnh nhân bị ung thư vú di căn không điều trị hóa trị liệu trước đó hoặc chỉ điều trị hóa trị liệu không có Anthracyclin trong liệu pháp hỗ trợ được tham gia nghiên cứu. Các kết quả cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa về thời gian đến khi bệnh tiến triển của bệnh nhân điều trị AT so với bệnh nhân điều trị FAC (8,2 so với 6,2 tháng; p=0,029). Thời gian sống trung bình thiên về nhóm Paclitaxel/doxorubicin so với nhóm dùng FAC (23,0 so với 18,3 tháng; p=0,004). 44% bệnh nhân trong nhóm AT và 48% bệnh nhân nhóm FAC được hóa trị liệu lần hai, 7% trong nhóm AT và 50% nhóm FAC được điều trị với taxan. Tỉ lệ đáp ứng chung cao hơn rõ rệt ở nhóm AT so với nhóm FAC (68% so với 55%). Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn là 19% bệnh nhân trong nhóm Paclitaxel/doxorubicin so với 8% trong nhóm FAC. Tất cả các kết quả về hiệu quả của thuốc sau đó đã được khẳng định trong một đánh giá tổng hợp độc lập và mù.
Trong nghiên cứu chính thứ 2, về hiệu quả và độ an toàn của Paclitaxel khi phối hợp với trastuzumab được đánh giá trong một phân tích các phân nhóm của nghiên cứu HO648g (bệnh nhân ung thư vú di căn điều trị hỗ trợ trước đó bằng Anthracyclin). Tác dụng của trastuzumab trong phối hợp với Paclitaxel ở bệnh nhân không điều trị hỗ trợ bằng Anthracyclin trước đó chưa được chứng minh. Sự phối hợp trastuzumab (4 mg/kg liều nạp sau đó 2 mg/kg mỗi tuần) và Paclitaxel (175 mg/m2) truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, 3 tuần 1 lần so với Paclitaxel đơn trị liệu (175 mg/m2) truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, 3 tuần 1 lần trên 188 bệnh nhân ung thư vú di căn biểu hiện quá mức HER2 (2+ hoặc 3+ xác định bằng hóa mô miễn dịch) trước đó được điều trị Anthracyclin. Paclitaxel điều trị 3 tuần 1 lần cho ít nhất 6 đợt điều trị trong khi trastuzumab được truyền tĩnh mạch hàng tuần cho đến khi bệnh tiến triển. Nghiên cứu cho thấy lợi ích rõ rệt của việc phối hợp Paclitaxel/trastuzumab về thời gian đến khi bệnh tiến triển (6,9 so với 3,0 tháng), tỉ lệ đáp ứng (41% so với 17%), và thời gian đáp ứng (10,5 so với 4,5 tháng) khi so sánh với Paclitaxel đơn trị liệu. Độc tính có ý nghĩa nhất quan sát được từ sự phối hợp Paclitaxel/trastuzumab là rối loạn chức năng tim (xem phần “Tác dụng phụ”).
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ
Trong điều trị NSCLC tiến triển, liều Paclitaxel 175 mg/m2 sau đó là Cisplatin 80 mg/m2 đã được đánh giá trong 2 thử nghiệm pha III (367 bệnh nhân điều trị bằng Paclitaxel). Cả 2 thử nghiệm đều ngẫu nhiên, một so sánh với điều trị bằng Cisplatin 100 mg/m2, một sử dụng teniposid 100 mg/m2 sau đó Cisplatin 80 mg/m2 với chất đối chứng (367 bệnh nhân nhóm so sánh).
Các kết quả trong mỗi thử nghiệm là tương tự. Đối với kết quả chính trên lâm sàng về tử vong, cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa chế độ điều trị có Paclitaxel và chất đối chứng (thời gian sống trung bình 8,1 và 9,5 tháng đối với điều trị bằng Paclitaxel, 8,6 và 9,9 tháng đối với các chất đối chứng). Tương tự, về thời gian sống không có tiến triển bệnh, cho thấy không có sự khác biệt giữa các nhóm điều trị. Tỉ lệ đáp ứng trên lâm sàng tốt hơn rõ rệt ở nhóm điều trị với Paclitaxel. Các kết quả về cải thiện chất lượng cuộc sống thể hiện thông qua chứng chán ăn cũng cho thấy lợi ích của việc điều trị bằng Paclitaxel, nhưng kém hơn về bệnh thần kinh ngoại vi (p< 0,008).
Kaposi Sarcoma ở bệnh nhân AIDS
Trong điều trị Kaposi Sarcoma liên quan với AIDS, hiệu quả và độ an toàn của Paclitaxel đã được đánh giá trong một nghiên cứu không so sánh trên bệnh nhân Kaposi Sarcoma tiến triển đã hóa trị liệu toàn thân trước đó. Chỉ tiêu đánh giá lâm sàng chính là đáp ứng khối u tốt nhất. Trong số 107 bệnh nhân, 63 được xem là đề kháng với Anthracyclin liposom. Phân nhóm này được coi là nhóm trung tâm để đánh giá hiệu quả điều trị. Tỉ lệ thành công chung (đáp ứng toàn bộ/một phần) sau 15 đợt điều trị là 57% (CI 44-70%) ở các bệnh nhân đề kháng với Anthracyclin liposom. Trên 50% đáp ứng rõ rệt sau 3 đợt điều trị đầu tiên. Ở các bệnh nhân đề kháng Anthracyclin liposom, tỉ lệ đáp ứng là tương đương nhau giữa các bệnh nhân không điều trị chất ức chế protease (55,6%) so với bệnh nhân có điều trị chất ức chế protease ít nhất trong 2 tháng trước khi điều trị Paclitaxel (60,9%). Khoảng thời gian trung bình đến khi bệnh tiến triển trong nhóm quần thể trung tâm là 468 ngày (95% CI 257-NE). Thời gian sống sót trung bình chưa tính toán được nhưng là 617 ngày với tỉ lệ thấp hơn 95% trong nhóm bệnh nhân trung tâm.
– Dược động học (Tác động của cơ thể với thuốc)
Sau khi truyền tĩnh mạch, nồng độ Paclitaxel trong huyết tương giảm theo đồ thị 2 pha. Dược động học của Paclitaxel được xác định trong sau khi truyền tĩnh mạch 3 giờ và 24 giờ với các liều 135 và 175 mg/m2. Thời gian bán thải trung bình của pha cuối dao động từ 3,0-52,7 giờ, còn giá trị trung bình của độ thanh thải toàn thân không phụ thuộc các khoang là 11,6 đến 24,0 lít/giờ/m2; độ thanh thải toàn thân sẽ giảm khi nồng độ của Paclitaxel trong huyết tương cao. Thể tích phân bố trung bình ở trạng thái ổn định dao động 198-688 lít/m2, chứng tỏ có sự phân bố rộng rãi ở ngoài mạch máu và/hoặc gắn mạnh vào mô. Nếu truyền 3 giờ, việc tăng liều tạo ra dược động học không tuyến tính. Nếu tăng 30% liều, từ 135 mg/m2 lên 175 mg/m2, thì Cmax tăng 75% và giá trị AOC0-∞ sẽ tăng 81%.
Sau khi truyền tĩnh mạch liều 100 mg/m2 trong 3 giờ trên 19 bệnh nhân KS, Cmax trung bình là 1.530 ng/ml (khoảng biến thiên 761–2.860 ng/ml) và AUC trung bình 5.619 ng.h/ml (khoảng biến thiên 2.609 – 9.428 ng.h/ml). Độ thanh thải là 20,6 l/h/m2 (biến thiên 11-38) và thể tích phân phối là 291 l/m2 (khoảng biến thiên 121-638). Thời gian bán thải trung bình của pha cuối là 23,7 giờ (biến thiên 12-33 giờ).
Rất ít có thay đổi giữa của cá thể về phân bố Paclitaxel trong toàn cơ thể. Chưa có chứng cớ về tích lũy Paclitaxel khi dùng nhiều đợt điều trị.
Nghiên cứu in vitro cho thấy thuốc gắn 89-98% vào protein huyết thanh người. Sự có mặt của cimetidin, ranitidin, dexamethason hoặc diphenhydramin không có ảnh hưởng tới sự gắn kết của Paclitaxel vào protein.
Sự phân bố của Paclitaxel trên người chưa được sáng tỏ. Giá trị trung bình về tổng lượng Paclitaxel thải qua nước tiểu chỉ là 1,3-12,6% của liều dùng, chứng tỏ có sự thanh thải đáng kể không qua thận. Chuyển hóa qua gan và đào thải qua mật có thể là cơ chế chủ yếu của việc đào thải của Paclitaxel. Paclitaxel chuyển hóa chủ yếu qua gan nhờ xúc tác của các enzym cytocrom P450. Khi truyền Paclitaxel đánh dấu, thấy trung bình chất đánh dấu thải qua phân là các chất chuyển hóa sau: 26% 6-alpha- hydroxy-Paclitaxel, 2% là 3′-p-dihydroxy- Paclitaxel, còn 6% là 6-alpha-3′-p-dihydroxy Paclitaxel. Sự tạo ra các chất chuyển hóa hydroxy này được xúc tác nhờ CYP2C8, -3A4 và cả -2C8, -3A4. Chưa xác định được ảnh hưởng của suy chức năng gan thận tới phân bố của Paclitaxel khi truyền 3 giờ. Những thông số dược động học từ một bệnh nhân lọc máu được truyền 3 giờ Paclitaxel 135 mg/m2 cho kết quả trong phạm vi đã được xác định ở những bệnh nhân không qua thẩm phân.
Trong các thử nghiệm lâm sàng Paclitaxel và doxorubicin điều trị đồng thời, phân phối và thải trừ của doxorubicin và các chất chuyển hóa được kéo dài. Tổng nồng độ doxorubicin trong huyết tương khi điều trị Paclitaxel ngay sau doxorubicin cao hơn 30% so với khi 2 thuốc điều trị cách nhau 24 giờ.
Khi Paclitaxel phối hợp điều trị với các liệu pháp khác, đề nghị xem tóm tắt đặc tính của Cisplatin, doxorubicin hoặc trastuzumab để biết thông tin về cách dùng các thuốc này.
8. Thông tin thêm
– Bảo quản
Không bảo quản trên 30ºC, tránh để đông lạnh, giữ nguyên trong hộp để tránh ánh sáng.
– Quy cách đóng gói
Hộp 1 lọ chứa 5 ml.
– Hạn sử dụng
24 tháng kể từ ngày sản xuất.
Về mặt hóa học và vật lý, sản phẩm ổn định ở nhiệt độ phòng trong vòng 28 ngày sau khi mở nắp lọ. Khuyến cáo sử dụng sản phẩm ngay sau khi rút thuốc ra khỏi lọ. Tuy nhiên về mặt vi sinh, sản phẩm có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng trong vòng 28 ngày sau khi mở nắp lọ.
- Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền Paclitaxel đã pha trong dung dịch glucose 5% và natri clorid 0,9% là 2 tuần nếu bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 50C ± 30C.
- Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền Paclitaxel đã pha trong dung dịch glucose 5% là 1 tuần nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng (200C ± 30C), không tránh ánh sáng.
- Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền Paclitaxel đã pha trong dung dịch natri clorid 0,9% là 5 ngày nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng, không tránh ánh sáng.
Về mặt vi sinh vật học, cần dùng ngay lập tức dung dịch đã pha chế. Nếu không thể sử dụng ngay được thì thời gian bảo quản và các điều kiện để sử dụng thuộc trách nhiệm của người dùng.
– Nhà sản xuất
EBEWE Pharma Ges.m.b.H. Nfg. KG.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.